Home / Tin tức / Khỏe từ tế bào / Năm 2020: Bệnh trầm cảm chỉ đứng thứ hai sau bệnh tim

Năm 2020: Bệnh trầm cảm chỉ đứng thứ hai sau bệnh tim

Trầm cảm – một căn bệnh không phân biệt tuổi tác, giới tính, chủng tộc, hay tình trạng kinh tế xã hội, tất cả mọi người đều có thể bị trầm cảm. Đây là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất, dù biểu hiện của các triệu chứng có thể khác nhau.

Theo BS Nguyễn Doãn Phương, Viện trưởng Viện Sức khỏe tâm thần, tại Việt Nam hiện có khoảng 30% dân số mắc rối loạn tâm thần, trong đó tỷ lệ trầm cảm chiếm 25%. Tại châu Âu, theo GS TS Heuser, Viện trưởng Viện tâm thần và trị liệu tâm lý trường ĐH Y Charite, Berlin, có gần 165 triệu người (tức 22%) đã và đang mắc các chứng rốn loạn tâm thần.

Theo dự báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đến năm 2020, trầm cảm là căn bệnh xếp thứ hai sau bệnh tim mạch về mức độ ảnh hưởng tới cuộc sống của loài người. Đồng thời, việc ruồng bỏ, hay gạt sang bên lề người mắc trầm cảm là vấn đề lớn ngăn cản nhiều người tìm đến các dịch vụ giúp đỡ.

Trầm cảm có thể ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống thường ngày làm giảm năng suất lao động. Ngoài ra, trầm cảm còn ảnh hưởng đến các mối quan hệ và làm xấu đi các tình trạng bệnh mãn tính, bao gồm:
  • bệnh viêm khớp
  • hen suyễn
  • bệnh tim mạch
  • ung thư
  • tiểu đường
  • béo phì

Tâm trạng tồi tệ do chuyện buồn hoặc không như ý muốn là một phần tất yếu và hoàn toàn bình thường trong cuộc sống. Tuy nhiên, thường xuyên cảm thấy khốn khổ hoặc vô vọng là điều không bình thường. Nhưng những triệu chứng này nhiều người Việt vẫn cho rằng do thay đổi thời tiết hay do các yếu tố khách quan hay những bệnh như rối loạn thần kinh thực vật, phong thấp, thiểu năng tuần hoàn não mà chưa coi đó có thể là dấu hiệu của bệnh trầm cảm.

Trầm cảm nên được xem là một tình trạng bệnh nghiêm trọng hơn bề ngoài vì khi không được điều trị, bệnh này có thể kéo dài hàng tháng hoặc nhiều năm. Ngoài ra, bệnh sẽ càng ngày càng trầm trọng khiến bệnh nhân có những suy nghĩ tiêu cực, chán sống thậm chí tự tử. Tuy nhiên, những bệnh nhân được điều trị thường nhận thấy các triệu chứng được cải thiện chỉ trong vài tuần.

Điều đáng nói là hiện nay có rất nhiều biện pháp điều trị hiệu quả bệnh trầm cảm cũng như phòng ngừa bệnh trầm cảm. Tuy nhiên do thiếu thông tin cũng như những định kiến và thiếu nhân lực dẫn đến tỷ lệ bệnh trầm cảm được điều trị đúng cách còn rất hạn chế, ở một số nước tỷ lệ này dừng lại ở con số khiêm tốn là 10%. Phát hiện sớm và điều trị đúng cách hiệu quả là chìa khoá hữa khỏi bệnh trầm cảm.

Các nguyên nhân gây ra bệnh trầm cảm
  • Chấn thương tâm lý khi còn nhỏ
  • Do di truyền
  • Các bệnh rối loạn tâm trạng khác
  • Cấu trúc não: người có thùy trước trán ít hoạt động có khả năng mắc bệnh trầm cảm cao hơn
  • Các bệnh mãn tính, mất ngủ, đau mãn tính hoặc rối loạn tăng động giảm chú ý
  • Tiền sử lạm dụng ma túy và chất kích thích

Theo các nghiên cứu gần đây, một số yếu tố thuận lợi cho việc phát sinh bệnh trầm cảm phải kể đến là tăng stress trong công việc, tăng mật độ dân số với việc giảm không gian sống, tăng ô nhiễm nước, không khí, tiếng ồn, thiếu sự cân bằng giữa nghỉ ngơi và công việc, tăng sức ép về công việc, gia đình và xã hội, cũng như những khó khăn về tài chính.Việt Nam là một nước đang phát triển, với dân số trên 90 triệu dân trong đó theo số liệu thống kê mới nhất khoảng 2,5% dân số Việt Nam đang chung sống với bệnh trầm cảm.

 

Nhiều người cho rằng phải bệnh rất nặng thậm chí là “bị điên” thì mới phải đi khám bác sỹ tâm lý, tâm thần. Chính điều này cũng khiến cho người người bệnh “ngại” đi khám bác sỹ tâm lý, tâm thần. Theo TS.BS Tạ Thị Minh Tâm, Chủ nhiệm Trung tâm tư vấn tâm lý và chăm sóc sức khỏe tinh thần cho cộng đồng người Việt tại ĐH Y Charité berlin:
“Nhiều bệnh nhân trầm cảm đến Trung tâm chúng tôi nói rằng, họ khó có thể giải thích với người nhà tại sao họ phải đi điều trị tâm lý và dùng thuốc. Vì ở bên ngoài khó ai có thể nhận ra là họ có bệnh, có bệnh nhân tâm sự với tôi, bệnh trầm cảm như bệnh “giả vờ” vậy, chỉ người trong cuộc mới cảm nhận được những hạn chế nặng nề mà nó gây ra.”

Việc cân bằng giữa công việc và nghỉ ngơi là vô cùng quan trọng để giảm các nguy cơ phát sinh các rối loạn tâm lý liên quan tới stress, trong đó có trầm cảm. Các biện pháp giảm stress tái tạo sức lao động có thể đơn giản là tập thể dục thể thao, tập yoga, gặp gỡ bạn bè, tập tĩnh tâm hoặc học một môn nghệ thuật mới (vẽ, âm nhạc…)…

“Ở Trung tâm của chúng tôi, bệnh nhân được học thêm những kỹ năng trong giao tiếp xã hội hay cách phân tích tình huống để giảm tối đa nhưng mâu thuẫn không cần thiết trong công việc và gia đình.”, chị cho hay.

Bên cạnh đó, chúng ta cần nâng cao kiến thức và giảm định kiến của người dân về bệnh trầm cảm và các phương pháp điều trị bệnh trầm cảm là rất quan trọng, để bệnh có thể được phát hiện sớm và điều trị sớm. Đồng thời, nâng cao việc chẩn đoán, chất lượng khám chữa bệnh trong Ngành Tâm thần và trị liệu tâm lý cũng như trang bị kiến thức về các rối loạn tâm lý tâm thần và các biện pháp trị liệu cho các bác sỹ kể cả các bác sỹ ở những chuyên ngành khác sẽ góp phần phát hiện và điều trị sớm bệnh trầm cảm từ đó giảm những hậu quả lâu dài do trầm cảm gây ra cho người bệnh, gia đình và xã hội. Trong điều trị trầm cảm việc kết hợp giữa điều trị thuốc và trị liệu tâm lý là hiệu quả nhất.

 

Depression: Types, Causes, Treatment & More. (2018). Retrieved from https://www.healthline.com/health/depression

T. T., & H. D. (2017, April 07). Năm 2020, bệnh trầm cảm chỉ đứng thứ 2 sau tim mạch. Retrieved from https://vov.vn/xa-hoi/nam-2020-benh-tram-cam-chi-dung-thu-2-sau-tim-mach-610742.vov